Vua chúa Thụy hiệu

Bắt đầu được sử dụng từ nhà Chu, thụy hiệu có lịch sử 800 năm lâu dài hơn miếu hiệu. Thời Tam Hoàng Ngũ Đế đến nhà Hạ, nhà Thương chưa có phép đặt thụy hiệu. Vì thụy hiệu được đặt cho những người quá cố, nó thường được đặt bởi người kế vị của người chết. Phép đặt thụy hiệu thường do người sau căn cứ vào hành trạng của người trước để đặt cho một hay nhiều chữ phù hợp.

Một số vua chúa không có thụy hiệu, có thể vì người kế vị không chịu hay chưa có cơ hội đặt tên. Các vua có nhiều võ công thường được đặt thụy là Vũ Đế (Hán Vũ Đế, Tấn Vũ Đế...), Vũ Vương (Chu Vũ Vương, Sở Vũ Vương), Vũ Công (Tấn Vũ Công, Trịnh Vũ Công)...; các vua nổi về giáo hóa được tôn là Văn Đế (Tùy Văn Đế, Hán Văn Đế), Văn Vương (Chu Văn Vương, Sở Văn Vương), Văn Công (Trịnh Văn Công, Tống Văn Công...). Vua độc ác thường được gọi là Lệ Vương, Lệ Công (Chu Lệ Vương, Mẫn Lệ công – thụy hiệu của vua quỷ Lê Uy Mục khi mới mất, sau này Lê Chiêu Tông đổi là Uy Mục); vua ngu tối thì đặt thụy là U vương, U công (Chu U Vương, Trần U Công...)

Từ thời nhà Chu đến đời nhà Tùy, các vua chúa thường có thụy hiệu ngắn 1–2 chữ, như Thành Vương, Uy Vương, Tuyên Huệ công, Hoàn Huệ Vương,... Nhưng từ thời nhà Đường, các thụy hiệu được đặt dài với nhiều chữ và do đó người sau khó nhớ hơn. Đường Cao Tổ Lý Uyên được tôn thụy hiệu là Thần Nghiêu Đại Thánh Đại Quang Hiếu hoàng đế, Trần Thái Tông được tôn thụy hiệu là Thống Thiên Ngự Cực Long Công Hậu Đức Hiền Công Hựu Thuận Thánh Văn Thần Vũ Nguyên Hiếu hoàng đế, do đó người ta lại lấy miếu hiệu để gọi vị vua đó cho thuận tiện...

Nhật Bản từ thời kỳ Minh Trị, vua chỉ đặt một niên hiệu, sau khi qua đời niên hiệu này cũng trở thành thụy hiệu của ông. Chẳng như vua Mutsuhito, đặt niên hiệu là Minh Trị, sau khi qua đời năm 1912 ông được tôn thụy hiệu là Minh Trị Thiên hoàng.

Các trường hợp đặc biệt

Các vua mất nước thường không có thụy hiệu (và cả miếu hiệu), như Mạc Mậu Hợp, Nguyễn Quang Toản hay thụy hiệu xấu như Ngọa Triều của vua Lê Long Đĩnh thời nhà Tiền Lê. Trường hợp này thường xảy ra với các vua các triều đại mất nước do chiến tranh tiêu diệt lẫn nhau, triều đại sau diệt triều đại trước không đặt thụy hiệu cho vị vua mà mình giành ngôi.

Một số trường hợp được đặt tên thụy bằng Mạt Đế, nghĩa là hoàng đế cuối cùng, như Hậu Lương Mạt Đế Chu Hữu Trinh, Đông Ngô Mạt Đế Tôn Hạo. Một số trường hợp "nhường ngôi" trong hòa bình (thực chất là ép nhường), các vua cuối cùng vẫn có thụy hiệu như Hán Hiến Đế (Lưu Hiệp), Tào Ngụy Nguyên Đế (Tào Hoán), Đông Tấn Cung Đế, Lý Chiêu Hoàng, Lê Cung Hoàng...

Trường hợp Lê HoànViệt Nam không có thụy hiệu. Tên gọi Lê Đại Hành ngày nay của ông không phải thụy hiệu và cũng không phải là miếu hiệu. Lê Văn Hưu lý giải:

Thiên tử... khi mới băng, chưa chôn vào sơn lăng, thì gọi là Đại Hành hoàng đế (nghĩa là vua sắp đi xa). Đến khi lăng tẩm đã yên thì hợp bầy tôi bàn xem đức hạnh để đặt thụy là mỗ hoàng đế..., không gọi là Đại Hành nữa. Lê Đại Hành thì lấy Đại Hành làm thụy hiệu mà truyền đến ngày nay là làm sao? Vì Ngọa Triều là con bất hiếu, lại không có bề tôi Nho học để giúp đỡ bàn về phép đặt thụy cho nên thế.

Không dùng thụy hiệu

Triều đại không dùng thụy hiệu, ngay cả khi phép đặt thụy đã tồn tại, là nhà Tần. Theo Sử ký, Tần Thủy Hoàng cho rằng phép đặt hiệu bụt của nhà Chu là "con bàn bạc về cha, bề tôi bàn luận về vua, thật là vô nghĩa". Do đó vua Tần bỏ phép đặt hiệu bụt mà tính theo số: từ Thủy Hoàng tới Nhị Thế, Tam Thế... tới Vạn Thế.